Monday, December 14, 2015

VĂN HỌC VIỆT NAM 3 NGÀNH CỬ NHÂN NGỮ VĂN-SP NGỮ VĂN


VĂN HỌC VIỆT NAM 3 NGÀNH CỬ NHÂN NGỮ VĂN-SP NGỮ VĂN

                          (BÀI BÁO CÁO)
                     MỘ (CHIỀU TỐI)
        (Trích Nhật kí trong tù )
 HỒ CHÍ MINH
I.  Tìm hiểu chung:
1.Tác giả:
Hồ Chí Minh (19/05/1890 – 02/09/1969), tên thật là Nguyễn Sinh Cung, tự là Nguyễn Tất Thành ở làng Kim Liên, Xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, một quê hương giàu truyền thống cách mạng. Sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, cha là Nguyễn Sinh Sắc từng đỗ phó bảng, mẹ là Hoàng Thị Loan. Trước đây Người học chữ Hán trong gia đình, sau đó học ở Quốc học Huế, rồi dạy học ở trường Dục Thanh một thời gian. Người đau lòng trước cảnh nước mất nhà tan, và với lòng yêu nước thương dân ngày 05/06/1911 tại bến cảng nhà Rồng người đã ra đi tìm đường cứu nước.
Phong cách nghệ thuật trong thơ Bác:
+ Đặt nền móng mở đường cho văn học cách mạng, kết hợp sâu sắc bên trong mối quan hệ giữa chính trị và văn học, tư tưởng và nghệ thuật, truyền thống và hiện đại.
+ Văn chính luận: bộc lộ tư duy sắc sảo, giàu tính luận chiến.
+ Truyện và kí: mở đầu và đặt nền móng cho văn xuôi cách mạng.
+ Thơ ca: có sự sáng tạo đa dạng, hình thức cổ thi hàm súc, uyên thâm, mang đận thơ ca cổ phương Đông.
2. Một số tác phẩm tiêu biểu:
              + Văn chính luận: Bản án chế độ thực dân Pháp, Tuyên ngôn Độc Lập, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến(1946), Không có gì quý hơn độc lập, tự do(1966).
              +Truyện và kí: Đồng tâm nhất trí(1922), Con rùa(1925), tập Truyện và kí.
              + Thơ ca: Nhật kí trong tù(1942), Thơ Hồ Chí Minh(1967), Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh(1990).
3. Hoàn cảnh sáng tác:
-      Nhật Kí Trong Tù có tựa gốc là Ngục Trung Nhật Kí, được viết bằng chữ Hán, tập nhật kí được sáng tác từ 29/08/1942 đến 10/09/1943 trong thời gian người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam ở Túc Vinh – Quảng Tây – Trung Quốc và giải đi khắp 30 nhà giam ở 13 huyện, thuộc tỉnh Quảng Tây.
-      Nhật Kí Trong Tù là tập nhật kí bằng thơ gồm 133 bài viết chủ yếu theo thể thơ tứ tuyệt.
-     Mộ là bài thơ thứ 31 trong tập Nhật Kí Trong Tù, được Người viết trên đường bị giải từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo cuối mùa thu năm 1942.
 4. Tóm tắt:
Qua tác phẩm ta thấy được bản chất xấu xa, đen tối của bọn phản động Trung Quốc những năm 1942 – 1943 và thể hiện chân dung, tinh thần của người tù cách mạng, tâm hồn lớn qua lòng nhân đạo, thương người dân Trung Quốc đau khổ trong và ngoài tù, và nỗi lòng thương nhớ đất Việt, dân Việt đồng thời thể hiện một tinh thần tự do, lạc quan luôn hướng về ánh sáng tương lai…
Vẽ đẹp thiên nhiên và cuộc sống rừng núi lúc chiều tối, một cảm xúc tinh tế, phong thái ung dung, một trí tuệ lớn qua nhận thức quy luật cuộc sống theo chiều hướng tích cực, tinh thần, ý chí cách mạng trong những ngày gian khổ.
II.Tìm hiểu tác phẩm:
1.  Vẽ đẹp thiên nhiên rừng núi khi hoàng hôn:
- Mở đầu bài thơ là hình ảnh:
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ”
(chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ)
 cánh chim gợi một vẻ đẹp quen thuộc trong thơ cổ khi tả về hoàng hôn cũng như trong thơ của nhà thơ Nguyễn Du:
“Chim hôm thoi thót về rừng”
(Truyện Kiều- Nguyễn Du)
Hay trong ca dao ta cũng có:
“Chim bay về núi tối rồi”
Cánh chim trong thơ Bác là cánh chim mỏi tìm về tổ sau một ngày kiếm ăn và nó cũng thật nhỏ bé với một không gian bao la của bầu trời, của cánh rừng. Với bút pháp chấm phá đã khắc họa vẻ đẹp thiên nhiên tinh tế gợi nhiều liên tưởng theo thời gian vận động của buổi chiều hoàng hôn với cánh rừng rộng lớn, bao la qua đó ta thấy góc nhìn độc đáo của tác giả hướng về tự do.
- Hình ảnh đó không chỉ khắc họa thiên nhiên mà còn gợi tả tâm trạng của người tù cách mạng. Câu thơ vừa tả cảnh mà còn gợi tả tâm trạng tinh tế của con người, “Chim mỏi” là những bước chân mệt mỏi sau một ngày chuyển lao vất vã, chim bay về rừng còn có nơi để nghỉ ngơi, còn Người chưa biết phải dừng chân nơi đâu, chiều chiều chim bay về tổ gợi sự đoàn tụ gia đình nhưng hoàn cảnh của Người thì hoàn toàn ngược lại vì Người đang xa quê, xa xứ, chịu cảnh tù đày nơi đất khách.
- Mây cũng là một đề tài mà không ích nhà văn, nhà thơ đã lấy làm cảm hứng sáng tác và Người cũng thế:
Cô vân mạn mạn độ thiên không”
(Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)
-         Ở đây chưa dịch được sát nghĩa ở chữ:
+ Cô trong “Cô vân”: Cô lẻ, cô độc, lẻ loi…
+Mạn mạn: Lững lờ
ð “Chòm mây lẻ loi lững lờ trôi giữa lưng chừng trời” thế mới diễn tả được hết sự lẻ loi, cô độc của chòm mây trong bầu trời rộng lớn.
Một bầu trời cao, một không gian rộng lớn gợi tả một phong thái ung dung đồng thời cũng là một bước đường đi lặng lẽ của Người qua dáng vẻ lững lờ, chậm rãi thông qua áng mây trôi.
- Chòm mây trôi nhẹ giữa một bầu trời rộng cho thấy mây đang cô đơn và con người cũng cô đơn. Dáng vẻ lững lờ, nhưng vẫn nhẹ nhàng trôi của chòm mây cũng như những bước chân dù đã mệt mỏi nhưng vẫn vững vàng và ung dung của người.
ð Hai câu thơ trên đều là hình ảnh động, gợi nên một bức tranh thiên nhiên, mang sắc thái cổ điển độc đáo và đặc biệt đều thể hiện rõ phong thái ung dung, sự quan sát, cảm nhận tinh tế và tinh thần lạc quan hướng về lí tưởng của Bác.
2.           Vẻ đẹp con người và cuộc sống
-   Con người trong bức tranh thiên nhiên thơ Bác hiện lên một cách lặng lẽ và bình dị, với công việc thường nhật, một thiếu nữ miền sơn cước đang chăm chỉ với công việc xay ngô:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc”
(Cô em xóm núi xay ngô tối)
 - Màn đêm buông xuống cũng chính là lúc nghỉ ngơi của mọi người sau một ngày lao động vất vả nhưng những con người nhỏ bé nơi rừng núi này lại tiếp tục công việc của mình, họ hiện lên một cách đơn độc, lẽ loi giữa một không gian rộng lớn nhưng sự xuất hiện đó lại làm cho bức tranh thêm phần ấm áp. Không chỉ hiểu được nỗi vất vả của bản thân đang trên đường chuyển lao mà Người còn thấu hiểu và cảm thông cho những con người có số phận nhỏ bé trong xã hội.
- Vốn không giống như những cô gái đài cát, cô thiếu nữ hiện lên với vẻ đẹp giản dị, chất phát của người dân lao động càng làm cho bức tranh thêm phần sinh động:
“Bao túc ma hoàn,lô dĩ hồng”
(Xay hết, lò than đã rực hồng)
  - Với biện pháp điệp vòng: ma bao túc – Bao túc ma (hoàn), gợi cảm giác vòng quay của cuộc sống thường ngày đó là sự liên kết chặt chẽ của câu 3 và câu 4, con người liên kết thành một thể thống nhất cùng vận động trong vòng quay, cùng hướng về một tâm điểm là ánh lửa trong đêm tối, “hồng” chính là nhãn tự của bài thơ, là toàn bộ sức sống của bài thơ vì tất cả các hình ảnh đều có sự vận động hướng về nhãn tự của bài thơ:
Bóng tối – ánh sáng
Lạnh - ấm áp
Buồn – vui
Bao la – tập trung
 - Hồng thể hiện niềm tin hướng về ánh sáng, hướng về cách mạng, tin vào tương lai. Bút pháp chấm phá, tả ít gợi nhiều gợi cảnh sinh hoat bình dị, thấm đẫm hơi ấm con người của người dân địa phương nơi núi rừng.
III.Tổng kết
1.Nghệ thuật
   - Bài thơ là sự kết hợp hài hoà giữa vẻ đẹp cổ điển và tinh thần hiện đại:

Cổ điển
Hiện đại
-      Ước lệ, tượng trưng
-      Phong thái ung dung , tự tại
-      Bút pháp chấm phá
-      Nghệ thuật điểm nhãn
-      Tả thực
-      Gắn bó với cuộc sống, con người
-      Hình tượng thơ vận dộng hướng về ánh sáng , về con người.

- Hồn thơ bay bổng dạt dào cảm xúc.
- Thể thơ tứ tuyệt, chữ Hán.
- Lấy động tả tĩnh, lập từ.
2.Nội dung
   Qua bài thơ ta thấy được một tình yêu thiết tha, mãnh liệt của Người đối với thiên nhiên, với con người và với cuộc sống; Một bản lĩnh, nghị lực phi thường, một niềm tin hi hữu vào tương lai của người chiến sĩ Cách mạng trong hoàn cảnh cổ đeo gông, tay mang xiềng.


{{{ {{{ {{{ {{ THE END {{ {{{ {{{ {{{

2 comments:

  1. This comment has been removed by the author.

    ReplyDelete
  2. Vẽ đẹp thiên nhiên và cuộc sống rừng núi lúc chiều tối, một cảm xúc tinh tế, phong thái ung dung, một trí tuệ lớn qua nhận thức quy luật cuộc sống theo chiều hướng tích cực, tinh thần, ý chí cách mạng trong những ngày gian khổ.đây là đoạn phân tích mình thích nhất
    click xem thêm Tại đây

    ReplyDelete