KHO KÍ ỨC THỂ LOẠI CỦA VĂN HỌC HIỆN THỰC XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA TRONG THƠ TỐ
Trong
rất nhiều công trình nghiên cứu, thơ Tố Hữu mặc nhiên được xem là “lá cờ đầu”
của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thế tức là chắc chắn đặc trưng
của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa sẽ được bộc lộ rõ nhất trong sáng tác
của ông. Cho nên, tôi sẽ phân tích thơ ông để nhận biết những đặc điểm của hiện
thực xã hội chủ nghĩa như một phương pháp sáng tác. Xin nói ngay, tôi xem thơ
Tố Hữu là một thực tiễn diễn ngôn. Tôi hiểu diễn ngôn là phát ngôn, một hành
động tạo sinh văn bản giữa người nói và người nghe, đồng thời là “sự kiện tương
tác văn hóa” (Van Djik) giữ chủ thể (tác giả, người sáng tạo), khách thể (người
nghe, người tiếp nhận) và đối tượng được nói tới (ai, cái gì, nhân vật). Hiểu
như thế, để rút ra nhận xét về văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa, tôi sẽ tiếp
cận thơ Tố Hữu từ ba góc độ: 1) Chiến lược diễn ngôn, 2) Ngôn ngữ thế giới quan
và các bức tranh thế giới bằng ngôn từ, 3) Mô thức tu từ.
Văn
học là hình thức giao tiếp xã hội - thẩm mĩ. Trong giao tiếp, bao giờ người ta
cũng lựa chọn một chiến lược diễn ngôn. Văn học “nói” bằng thể loại. Không có
tác phẩm văn học tồn tại ngoài thể loại lời nói (M.M. Bakhtin). Cho nên, lựa
chọn chiến lược diễn ngôn thực chất là lựa chọn thể loại lời nói trong giao
tiếp nghệ thuật. Xin lưu ý, tôi không bàn về thể loại như một mô hình lí tưởng,
một cấu trúc trừu tượng, mà nói về nó như một cấu trúc diễn ngôn. Nó là cấu
trúc ba chiều được thỏa thuận sử dụng trong giao tiếp giữa người nói và người
nghe. Trong văn học hiện đại, thể loại diễn ngôn nghệ thuật có cấu trúc hết sức
phức tạp. Nhưng dù phức tạp thế nào, người đọc vẫn nhận ra sự chi phối của bốn
biến thể chính yếu: truyền thuyết, dụ ngôn, giai thoại và truyện tiểu sử. Ba
thể loại trước gắn liền với truyền thống văn hóa dân gian, truyện tiểu sử ra
đời cùng với văn học viết. Chúng là những “cổ mẫu”, những thể loại gốc có sức
sống lâu bền, cắm rễ rất sâu vào các tầng vỉa văn hóa hiện đại. Mỗi thể loại
như thế đều có mục đích giao tiếp cụ thể (khiến diễn ngôn nghệ thuật ngay từ
đầu đã là một chỉnh thể), có bức tranh thế giới thế giới được kiến tạo theo
kiểu riêng và có mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể giao tiếp được đặt vào
những cấp độ khác nhau để tạo thành một chiến lược giao tiếp[1].
Giờ
đây, ta có thể nhìn thấy rất rõ, Tố Hữu là nhà thơ Việt Nam đầu tiên đã chọn
truyền thuyết làm chiến lược diễn ngôn cho văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa.
Thật vậy, dụ ngôn lấy răn dạy, thuyết gảng những bài học luân lí, đạo đức làm
mục đích giao tiếp. Mục đích giao tiếp của truyền thuyết là truyền đạt những
tri thức khả tín (bất kiểm chứng). Toàn
bộ nội dung thơ Tố Hữu có thể gói gọn vào hai truyền thuyết, cũng có thể gọi là
hai khối tri thức, hoặc hai đại tự sự. Thứ nhất: truyền thuyết về sự cứu rỗi
con người cá nhân. Thứ hai: truyền thuyết về cứu rỗi dân tộc, về một “…Việt
Nam! Từ trong biển máu. Người vươn lên như một thiên thần”[2].
Truyền
thuyết về sự cứu rỗi con người cá nhân lần đầu tiên được trình bày trong bài Từ
ấy. Tố Hữu viết bài thơ vào năm 1938, sau khi ông được kết nạp Đảng. Tác phẩm
nói về sự bừng ngộ của một tâm hồn thi sĩ; một thanh niên được “mặt trời chân
lí chói qua tim”, nguyện hòa cái “tôi” riêng của cá nhân vào cái “ta” chung của
quần chúng cần lao. Căn cứ vào nhan đề mới và ba tiêu đề của ba phần trong tập
thơ ở lần tái bản năm 1959, có thể thấy, chính Tố Hữu đã cố ý nối kết các tác
phẩm riêng lẻ với nhau để biến cuốn Từ ấy thành một truyền thuyết hoàn
chỉnh[3]. Nội dung của truyền thuyết có thể gói gọn vào câu chuyện về một thanh
niên “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”, nhờ có “anh Lưu, anh Diểu” dẫn dắt, được
giác ngộ lí tưởng cách mạng, nhờ dấn thân vào “trường tranh đấu”, trải qua “Máu
lửa” và “Xiềng xích”, chàng thanh niên trở thành chiến sĩ kiên cường, nguyện
suốt đời: “Dâng tất cả để tôn thờ chủ nghĩa”.
Nội
dung ấy được đúc kết hàm súc trong bài Quê mẹ (1955) và về sau được lặp đi lặp
lại nhiều lần trong sáng tác của Tố Hữu.
Những
mảnh đầu tiên của truyền thuyết về sự cứu rỗi dân tộc được phác thảo trong hàng
loạt bài thơ của Tố Hữu như Huế tháng Tám, Xuân nhân loại, Vui bất tuyệt (Từ
ấy), Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Ta đi tới, Lại về (Việt Bắc), Quê mẹ, Xưa …
nay, Quang vinh Tổ quốc chúng ta, Trên miền Bắc mùa xuân (Gió lộng). Pho truyền
thuyết này được hoàn thiện trong trường ca Ba mươi năm đời ta có Đảng, về sau,
cùng với sự vận động của lịch sử cho tới ngày thống nhất đất nước (1975), nó
được bổ sung, mở rộng, nối dài trong một loạt tác phẩm khác, như Theo chân Bác,
Việt Nam máu và hoa, Nước non ngàn dặm… Dù ở dạng hoàn chỉnh, hay chỉ mấy nét
chấm phá, thì truyền thuyết về sự cứu rỗi dân tộc trong thơ Tố Hữu bao giờ cũng
là câu chuyện lịch sử được mở ra bằng cảnh:
-
Nước mất nhà tan, đời khổ thế
-
Kiếp người cơm vãi cơm rơi.
Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi.
“Máu” (“Sân đình máu chảy…”), “đêm”, “tối”
(“Xưa là rừng núi, là đêm…”), “gương vỡ” (“Đời ta gương vỡ…”) là những ẩn dụ
thường xuyên được nhà thơ sử dụng để kể chuyện về:
Thuở
nô lệ thân ta mất nước
Cảnh
cơ hàn trời đất tối tăm
Nhưng rồi Đảng ra đời, cờ Đảng giương cao như
mặt trời quét sạch đêm đen:
Lần
đêm bước đến khi hừng sáng
Mặt
trời kia! Cờ Đảng giương cao.
Nhờ có Đảng, dân tộc “lại hồi sinh”. Đảng là
vị cứu tinh:
Lại
hồi sinh, trả lại cho ta.
Trời
cao, đất rộng bao la
Bát
cơm, tấm áo, hương hoa, hồn người.
Dưới
sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc ta giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác:
đánh Pháp, đuổi Nhật, làm cuộc cách mạng tháng Tám long trời lở đất, rồi lại
đánh Pháp, đánh Mĩ, xây dựng chủ nghĩa xã hội, thống nhất nước nhà, mở ra thời
đại mới. Từ một dân tộc nô lệ:
Giặc
cướp hết non cao biển rộng.
Cướp
cả tên nòi giống tổ tiên.
Nay:
Ta đã nên người độc lập
Cao
bằng người, nào thấp thua ai.
Trong
Bài ca mùa xuân năm 1961, Tố hữu viết:
Đảng
cho ta trái tim giàu
Thẳng
lưng mà bước, ngẩng đầu mà bay.
Tôi
nhắc lại ý thơ ấy là có ý muốn nói, truyền thuyết về sự cứu rỗi con người cá
nhân và cứu rỗi dân tộc thực ra chỉ là hai bình diện khác nhau của một đại tự
sự về:
Đảng
chói lọi, Hồ Chí Minh vĩ đại.
Để
truyền đạt những tri thức khả tín (bất kiểm chứng), truyền thuyết kiến tạo cho
mình một bức tranh thế giới rất riêng. Thế giới trong truyện tiểu sử, hoặc tiểu
thuyết giáo dục là bức tranh của những khách thể quan sát. Thế giới trong dụ
ngôn là bức tranh của những chủ thể lựa chọn. Trong truyền thuyết, thế giới là
bức tranh của những vai trò, những chức năng. Bước vào bức tranh thế giới của
truyền thuyết, mọi nhân vật đều bị đồng nhất với một chức năng, một vai trò.
Không có nhân vật nào được phép lớn hơn, hay nhỏ hơn chức năng của nó.
Tôi
xác định truyền thuyết là chiến lược diễn ngôn của thơ Tố Hữu, vì sáng tác của
ông đã tạo ra bức tranh thế giới theo nguyên tắc phân vai. Những ai đã nghiên
cứu thơ Tố Hữu đều có thể thấy, toàn bộ thế giới nhân vật trong sáng tác ông
được khuôn vào bốn vai cổ mẫu có gốc gác từ huyền thoại: Cha - Anh Minh, Mẹ -
Tổ Quốc, Chúng Con - Anh Hùng và Kẻ Thù - Bầy Thú Dữ:
+ “Cha” là lãnh tụ:
-
Bác Hồ, cha của chúng con.
- Vinh quang Hồ Chí minh
Cha của chúng ta ngàn năm sống mãi.
Đảng
cũng là “Cha”, vì “Cha” đồng nhất với vai “cứu tinh”:
Đảng
ta Mác - Lênin vĩ đại
Lại
hồi sinh, trả lại cho ta
Trời
cao, đất rộng bao la…
“Vai”
của “Cha” là soi đường dẫn lối:
Người
ngồi đó với cây chì đỏ
Vạch
đường đi, từng bước, từng giờ.
Hoặc:
Đảng
ta đưa dân nước ta đi…
Con đường cách mạng trường kì
Ba
mươi năm ấy bước đi vững vàng.
Với
ý nghĩa như vậy, trong thơ Tố Hữu, Lênin là “Cha”:
Lênin
ơi, người Thầy, người Cha.
Stalin, Mao Trạch Đông, hay Kim Nhật Thành
cũng đều là “Cha của chúng con”. Phẩm chất lớn nhất của “Cha” - vị “cứu tinh”,
người “vạch đường đi” - là anh minh:
Người
trông gió bỏ buồm, chọn lúc.
Nước
cờ hay xoay vạn kiêu binh.
Hoặc
“…Lênin vĩ đại. Hoa trái đất, chất kim cương <…> Trí tuệ, tình yêu của
bốn phương”. “Lênin nằm nhắm mắt (…) Để thấy trước những bước đi lịch sử”.
“Vai” “vạch đường đi” và sự “anh minh” của “Cha” bao giờ cũng được mã hoá bằng
các chi tiết tạo hình: tư thế ung dung, trán rộng, mắt sáng, giọng nói vang
vọng. Chẳng hạn, nét tạo hình chân dung Lênin:
Mái
tóc giả che vầng trán rộng.
Như
bóng mây giấu ánh mặt trời.
Hoặc
chân dung tạo hình của Bác Hồ:
-
Bác Hồ đó ung dung châm lửa hút.
Trán
mênh mông thanh thản một vùng trời.
-
Nhớ Người những sáng tinh sương.
Ung
dung yên ngựa trên đường suối reo.
+
“Mẹ” là Tổ quốc. ”. “Mẹ” đứng sau “Cha”, vì “Cha” là lãnh tụ,“Mẹ là đất nước,
tháng ngày của con” (thơ Trần Đăng Khoa). “Vai” của “Mẹ” là đùm bọc, chở che, nuôi
dưỡng. Với ý nghĩa như thế, trong thơ Tố Hữu, bà má Hậu Giang là “Mẹ Tổ quốc”.
Mẹ Tơm - “buồng Mẹ - buồng tim - giấu chúng con” – là “Mẹ Tổ quốc”. Những bà
bầm - “Cho con nào áo nào quà. Cho củi con sưởi, cho nhà nghỉ ngơi” - là “Mẹ Vệ
quốc quân”. “Mẹ” gắn liền với hình ảnh gốc lúa, bờ tre, nương dâu, bãi mía.
Phẩm chất của “Mẹ” là phẩm chất của đất
nước, quê hương: lam lũ, nghèo cực, mà tảo tần, son sắt thuỷ chung:
Sống
trong cát chết vùi trong cát.
Những
trái tim như ngọc sáng ngời!
Phẩm
chất và “vai” của “Mẹ” thường được tô đậm bằng hai chi tiết tạo hình: vóc gầy
và áo bạc, ví như:
Bầm
ra ruộng cấy bầm run.
Chân
lội dưới bùn, tay cấy mạ non <…>
Mưa
phùn ướt áo tứ thân…
+ “Chúng con” là “Chiến sĩ đồng bào”, vây
quanh “Cha” và “Mẹ”. “Vai” của “Chúng con” là “chiến đấu hi sinh”:
Chúng
con chiến đấu hi sinh
Tấm lòng son sắt, đinh ninh lời thề.
Phẩm
chất cơ bản của “Chúng con” là anh hùng. “Vai” và phẩm chất anh hùng của “Chúng
con” được tạo hình bằng những chi tiết hành động: “Anh du kích”: “Nửa đêm bôn
tập diệt đồn”, “chiến sĩ nông thôn”: “Bắt sỏi đá phải thành sắn gạo”, “anh
thợ”: “má … vàng thuốc pháo. Cánh tay …đầy sẹo lửa gang”, các “em”: “đốt đuốc
đến trường làng”, hoặc “chị dân công”: “mòn đêm vận tải”. Đây chính là hệ thống
nhân vật hành động chủ chốt của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa.
+
Kẻ thù là “thực dân, phong kiến một bầy”.
Từ
góc độ chiến lược diễn ngôn, có hai điểm đáng chú ý về bức tranh thế giới phân
vai trong thơ Tố Hữu:
Thứ
nhất: Vai “Địch” bao giờ cũng bị vật hóa, “chúng là thú vật”: là “chó đói”,
“mèo hoang”, là “hổ mang”, “hổ báo hôi tanh”… “Thú vật” không thể cá thể hóa,
chúng là “lũ”, là “bầy”, “đàn”: “Lũ chúng nó rầm rầm rộ rộ”. “Như bầy chó đói chực
chồm miếng ăn”, “… Như bầy quỉ sống. Nướng người ăn, nhảy nhót, reo cười”.
Vai
“Địch” và Vai “Ta” đối lập với nhau như nước với lửa, như ánh sáng và bóng tối.
Nếu “chúng là thú vật”, thì “ta đây là người”. Các vai thuộc phe “Ta” (“Cha
–Anh Minh”, “Mẹ - Tổ Quốc”, “Chúng con – Anh hùng”) bao giờ cũng được khắc họa theo nguyên tắc
tạc tượng đài. Đặc điểm đầu tiên của tượng đài là ấn tượng thị giác về sự lộng
lẫy, uy nghi, hoành tráng. Chẳng hạn:
Mong
manh áo vải, hồn muôn trượng.
Hơn
tượng đồng phơi những lối mòn.
Hoặc
tượng đài anh giải phóng quân:
Anh
đi xuôi ngược tung hoành.
Bước
dài như gió, lay thành chuyển non.
Mái
chèo một chiếc xuồng con.
Mà
sông nước dậy sóng cồn đại dương.
Một đặc điểm khác, trong cái nhìn của người
chiêm ngưỡng, tượng đài bao giờ cũng để lại ấn tượng thị giác đậm nét về chất
liệu vật chất bằng đá, đồng, kim loại quí gợi lên sự bền bỉ, bất hoại, trường
tồn của nó. Đây là tượng đài Đảng ta:
Đảng
ta đó, trăm tay nghìn mắt.
Đảng
ta đây, xương sắt da đồng.
Ngay
cả hình tượng chị lao công cũng được Tố Hữu tạc thành tượng đài bằng đồng, bằng
sắt, bất hủy, bất hoại:
Những
đêm đông.
Khi
cơn giông.
Vừa
tắt.
Tôi
đứng trông.
Trên
đường lạnh ngắt.
Chị
lao công.
Như
sắt.
Như đồng.
Chị
lao công.
Đêm đông.
Quét
rác…
Nhà thơ không chỉ dùng “sắt”, “đồng” truyền
thống, mà còn lấy cả mây suối, giông gió, chớp lửa thiên nhiên làm chất liệu
tạc tượng đài. Đây là tượng đài Người con gái Việt Nam:
Em
là ai cô gái hay nàng tiên.
Em
có tuổi hay không có tuổi
Mái
tóc em đây, hay là mây là suối.
Đôi
mắt em nhìn hay chớp lửa đêm going.
Thịt
da em hay là sắt là đồng?
Thứ
hai: Vì Tố Hữu được xem là “lá cờ đầu” của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa,
nên yêu cầu “mô tả hiện thực chân thực, cụ thể - lịch sử trong tiến trình vận
động cách mạng” của phương pháp sáng này cần được hiểu sao cho đúng, cho sát
với bức tranh thế giới được khắc họa theo nguyên tắc phân vai tượng đài trong
sáng tác của ông. Chỉ cần theo dõi sự vận động của hình tượng lãnh tụ trong
sáng tác của ông, ta sẽ nhận ran gay, nhà thơ mô tả nhân vật theo vai điển phạm
của nó, chứ không mô tả nó như con người có thật. Ta biết, kể từ bài Sáng tháng
Năm (1952) về sau, hình tượng Bác Hồ trong thơ Tố Hữu có sự điều chỉnh rất đáng
kể so với hình tượng lãnh tụ trong bài Hồ Chí Minh. Năm 1946, trong bài Hồ Chí
Minh, Tố Hữu viết: “Hồ Chí Minh. Người lính già” (…), “Làm tên quân cảm tử đi
tiên phong” (…), “Người xông lên” (…) “Tiếng Người thét. Mau lên gươm lắp
súng”. Chi tiết nào trong bài thơ cũng gợi ra hình ảnh một nhân vật hành động,
anh hùng quả cảm. Hình ảnh ấy chỉ hợp với “Chúng con chiến đấu hi sinh”. Thế
tức là “lạc vai”. Cho nên, giới phê bình thường nhận xét, rằng ở đây, hình
tượng lãnh tụ được thể hiện “chưa thật”. Chắc Tố Hữu cũng nghĩ vậy, nên từ Sáng
tháng Năm, Bác Hồ của ông không còn là “Người lính già”, mà là “Cha, là Bác, là
Anh. Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ”. Người không “xông lên”, không “đi tiên
phong”, mà “Bác ngồi Bác viết nhà sàn đơn sơ”. Bác cũng không “thét”, “Giọng
của người không phải sấm trên cao”, mà “Thấm từng tiếng, ấm vào lòng non
nước”(Tố Hữu, tr. 170). Đúng là Tố Hữu đã chỉnh sửa hình tượng Bác Hồ sao cho
hợp “vai” lãnh tụ, hơn là hợp với người thật, với nhân vật tiểu sử Hồ Chí Minh.
Với ý nghĩa như vậy, tôi gọi văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa là chủ nghĩa
hiện thực thị giác, hay chủ nghĩa hiện thực phân vai tượng đài.
Mỗi
chiến lược diễn ngôn bao giờ cũng chọn cho chủ thể lời nói một mặt nạ ngôn ngữ
và đặt quan hệ giữa người nói với người nghe vào một cấp độ giao tiếp cụ thể.
Để truyền đạt tri thức khả tín, truyền thuyết bao giờ cũng chọn cho chủ thể lời
nói mặt nạ ngôn ngữ của Người Sở Đắc Chân Lí. Mấy năm trước đây, trong một tiểu
luận đăng trên “Nghiên cứu văn học”, tôi đã chứng minh, mặt nạ ngôn ngữ của chủ
thể lời nói trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa, nói chung, và trong thơ
Tố Hữu, nói riêng, là Người Chiến Thắng. “Người Chiến Thắng” này là Liên xô,
Trung Quốc, Ba Lan, Cu Ba, Triều Tiên, là “Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”, là
“Cha Anh Minh”, Mẹ Tổ Quốc, “Chúng Con Anh Hùng”, là “Ta”, “Chúng Ta”… Là
“Người Chiến Thắng”, “Ta”, “Chúng Ta” đồng thời cũng là Người Sở Đắc Chân Lí.
Trong mặt nạ ngôn ngữ của Người Sở Đắc Chân Lí, diễn ngôn thơ Tố Hữu bao giờ
cũng được tổ chức theo nguyên tắc đồng thuận, đồng ca[4]. Để tạo ra nguyên tắc
đồng ca, mọi sự giao tiếp ngôn ngữ giữa người nói và người nghe được khuôn vào
hai cấp độ quan hệ: “Mình – Ta” và “Chúng Ta - Chúng Nó”.
“Chúng
Nó” là “địch”, là “thú vật”, “chó ngộ,
“hổ mang”, là “hổ báo hôi tanh”, “thú dữ một bầy”. Thú vật dĩ nhiên không thể
có ngôn ngữ. Cho nên, cuộc giao tiếp giữa “Chúng Ta” và “Chúng Nó” là giao tiếp
một bên, một phía; thành ra, lời phán quyết của chúng ta là tiếng nói “đồng
thuận”, “đồng tình”.
Giao
tiếp “Mình - Ta” là giao tiếp “nội bộ”, giao tiếp giữa “Chúng Ta” với nhau:
“Ta” là lãnh tụ, là cán bộ; “Mình” là “chiến sĩ đồng bào”, là quần chúng nhân
dân. Ở đây “Ta nói - Mình nghe”; “Mình hỏi - Ta đáp”, “Ta nói” bao giờ cũng
“khả tín”, dứt khoát, chắc như đinh đóng cột, “Mình nghe” bao giờ cũng tin
tưởng chân thành, cuộc trò chuyện giữa “Mình” và “Ta” bao giờ cũng diễn ra
trong trạng thái đồng thuận, đồng tình. Đây là cảnh trò chuyện giữa chàng thanh
niên giác ngộ Cách mạng và ông lão trong Lão đầy tớ:
Cậu
bảo: Cũng không xa?
-
Nước Nga?
-
Ờ, nước ấy”.
Và
há mồm khoan khoái.
Lão
ngồi mơ nước Nga.
Có
thể xem Việt Bắc là tác phẩm điển mẫu của lối kết cấu hỏi - đáp “Mình - Ta”
theo nguyên tắc đồng ca, đồng tình. Ở đây người hỏi là quần chúng nhân dân, là
chiến khu Việt Bắc, là người ở lại; người trả lời là cán bộ kháng chiến, là
người ra đi. Mỗi khi có lời hỏi, người cán bộ bao giờ cũng đáp lại bằng những
lời khẳng định chắc nịch, càng về sau càng dứt khoát, hùng hồn, cứ ý như là mọi
chuyện đã giải quyết xong xuôi, tương lai đang hiện ra trước mắt, đã nắm chắc ở
trong tay. Bải thơ được khép lại bằng cảnh tượng “Mình - Ta” cầm tay nhau cất
cao tiếng hát:
Cầm
tay nhau hát vui chung
Hôm
sau mình nhé, hát cùng thủ đô.
Có
thể thấy, diễn ngôn thơ Tố Hữu hoàn toàn không mâu thuẫn với các phát ngôn
chính luận của ông. Ông nói: “Thơ là tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói
đồng chí”. Hoặc: “Thơ là điệu tâm hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu”. Giờ đây
tôi hiểu, những định nghĩa như thế của Tố Hữu phù hợp với chiến lược diễn ngôn
của của phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa hơn là phù hợp với đặc
trưng của thể loại.
Chiến
lược diễn ngôn tất yếu sẽ chi phối sự lựa chọn ngôn ngữ thế giới quan và các mô
thức tu từ trong thơ Tố Hữu.
thơ Tố Hữu mặc nhiên được xem là “lá cờ đầu” của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thế tức là chắc chắn đặc trưng của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa sẽ được bộc lộ rõ nhất trong sáng tác của ông.
ReplyDeleteclick xem thêm Gia sư Bình Dương Thủ Dầu Một