THI CA VÀ ĐẠI CÁO TRONG THƠ
TỐ HỮU
1.
Lời mở đầu
Nhìn chung, từViệt
Bắc, nhất là ở các tập Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa, thơ Tố Hữu là hình thức
tổng hợp của các mô thức tu từ. Trong sáng tác của ông vừa có tiếng nói hướng
thượng cung kính của “chúng con”, của “chiến sĩ đồng bào”cất lên từ phía dưới,
vừa có tiếng nói trang trọng, “quyền uy” của “ta”, “Chúng ta”, của Đảng, Lãnh
tụ, của Tổ quốc vang lên từ ở bên trên. Bốn mô thức tu từ Thệ - Hịch - Ca thi -
Đại cáo tương ứng với tương quan cấp độ của các chủ thể trong sự kiện giao tiếp
và hệ thống phân vai trên bức tranh thế giới như những thẩm quyền diễn ngôn
trong sáng tác của Tố Hữu. Chúng thực sự biến thi pháp sáng tạo thành thi pháp
của cái điển mẫu, mang lại vị thế quyền lực cho diễn ngôn văn học hiện thực xã
hội chủ nghĩa.
2. Phân tích
2.1.
Thi ca trong thơ Tố Hữu
Khái niệm này có
nội hàm tương đương với phạm trù “Tụng” trong mĩ học phương Đông, hoặc “Ode”
của mĩ học phương Tây. Nó là thơ tán dương, ca ngợi. Tố Hữu bắt đầu viết ca thi
từ năm 1946. Các bài Hồ chí Minh, Huế Tháng Tám, Vui bất tuyệt in trong Từ ấy
là những tác phẩm ca thi đầu tiên của ông. So với Từ ấy, số lượng ca thi
trongViệt Bắc nhiều hơn. Đêm xanh, Cá nước, Lên Tây Bắc,Sáng tháng năm, Ta đi
tới, Việt Bắc… là những áng ca thi đặc sắc của thơ ca Cách mạng. Đặt nhan đề
cho tập thơ được sáng tác sau ngày hòa bình lập lại là Gió lộng (1955 -
1961) với câu đề từ rút từ bài Mẹ Tơm: “Gió lộng đường khơi rộng đất
trời!”, Tố Hữu đã hé lộ để người đọc nhìn thấy một thời đại ca thi thực sự đã
được mở ra. Kể từ đây, cùng với “hịch”, ca thi trở thành mô thức tu từ chủ đạo
trong sáng tác của ông.
Như đã nói, Tố Hữu
làm thơ là để phục vụ và tuyên truyền Cách mạng. Thơ ông là thơ trữ tình chính
trị[1]. Toàn bộca thi trong sáng tác của ông không vượt ra ngoài giới hạn của
ba loại chính ca đã trở thành điển phạm: Đảng ca,Lãnh tụ ca và Cách mạng ca.
Đảng calà thơ ca
ngợi Đảng. Hai bài thơ đầu tiên của Tố Hữu lên tiếng ca ngợi Đảng là Từ ấy
(1938) và Con cá chột nưa (1940). Hồi ấy, có lẽ do hoàn cảnh hoạt động bí mật,
nhà thơ chỉ nói tới “Mặt trời chân lí” (“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ. Mặt trời
chân lí chói qua tim”)và“Đôi mắt thần: chủ nghĩa”(“Tôi sẵn có trong mình. Đôi
mắt thần: chủ nghĩa”). Phải đến sau Cách mạng tháng Tám, ông mới hô vang giữa
chiến khu Việt Bắc: “Không gì vinh bằng chiến đấu dưới cờ. Đảng chói lọi, Hồ
Chí Minh vĩ đại”. Năm 1960, Tố Hữu viết trường ca Ba mươi năm đời ta có Đảng.
Tác phẩm vừa là bản diễn ca Đảng sử, vừa là màn hợp xướng ngợi ca
“Đảng chói lọi”. Từ đây, ông trở thành thi sĩ hàng đầu của dòng Đảng ca trên
bầu trời văn nghệ hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thơ ông chuyển tải không
mệt mỏi tới người đọc một đại tự sự: Đảng là trí tuệ, là văn minh, là người
phát động phong trào, tổ chức nên mọi thắng lợi, cứu dân, cứu nước, biến giấc
mơ ngàn đời của những kẻ nô lệ thành hiện thực:
Nghìn năm giấc mộng
đêm ngày
Ba mươi năm
Đảng, hôm nay có mình.
Lãnh tụ calà thơ
suy tôn lãnh tụ. Năm 1946, Tố Hữu viết bài Hồ Chí Minh và trở thành thi sĩ Việt
Nam đầu tiên sáng tác Lãnh tụ ca. Năm 1952, ông viết bài Sáng tháng năm nổi
tiếng. Năm 1969, Tố Hữu khóc Bác bằng bài Bác ơi, một năm sau, ông cho ra đời
trường ca Theo chân Bác. Ngoài Hồ Chí Minh, Tố Hữu còn viết về Stalin (Bài ca
tháng Mười, Đời đời nhớ ông), Lênin (Trước Kremlin, Với Lênin, Lều cỏ Lênin).
Tôi tin, ở Việt Nam, cho đến nay, chưa một nhà văn hay nhà thơ nào viết về lãnh
tụ có sức lay động lòng người mạnh mẽ như Tố Hữu. Có điều, chỉ cần đọc qua, ai
cũng thấy, những vần thơ suy tôn lãnh tụ của ông không nói với ta điều gì mới
mẻ ngoài những tri thức một thời ta đã được học, đã được biết, ví như, Bác Hồ
là “tinh hoa của dân tộc”, là bậc “đại trí, đại nhân, đại dũng”, Bác vĩ đại, mà
giản dị, suốt “một đời thanh bạch chẳng vàng son”, Người là “Ngọn đuốc thiêng
<…> đi trước, nghìn sương muôn tuyết. Dắt dìu dân nước Việt Nam ta”. Nói
như thế để thấy, không phải nội dung, mà chính là lớp tu từ đã tạo nên sức hấp
dẫn cho những vần thơ suy tôn lãnh tụ của Tố Hữu.
Cách mạng calà thơ
ca tụng Cách mạng. Trong sáng tác của Tố Hữu, đây là bộ phận có khối lượng lớn
nhất và nó thường dựa vào các tứ thơ được lặp đi lặp lại như những mô thức dễ
nhận biết. Trước hết, phải kể tới một tứ lớn:“Biển sống trào lên thành đại
hội”. Lần đầu nó được mở ra trong bài Vui bất tuyệt:
Biển sống trào lên
thành đại hội
Muôn màu vũ trụ kết
hoa đăng
Xôn xao mặt đất
trăng là trăng
Chảy xiết Ngân hà,
muôn sao vàng rực
Mặt trời đỏ huyền
kì mọc lên, ôi náo nức
Nhạc trân gian cuồn
cuộn bốc hồng trần!
Đây là tứ thơ lấy
cảm hứng trực tiếp từ không khí của những ngày Tổng khởi nghĩa năm 1945 ở Huế
và có nguồn cội từ luận điểm nổi tiếng của C. Mác: “Cách mạng là ngày hội của
quần chúng”. Về sau, nó trở thành tứ thơ trung tâm, làm nên linh hồn của Cách
mạng ca trong sáng tác của Tố Hữu. Về điểm này, có lẽ không cần nói gì thêm, vì
trên kia tôi đã chứng minh: Tố Hữu không chỉ mô tả Cách mạng như ngày hội lớn
của dân tộc, mà còn sử dụng ngôn ngữ hội hè để kiến tạo bức tranh thế giới,
biến cả thế giới thành vũ hội Cách mạng.
Một tứ thơ khác:
“Đời ta gương vỡ lại lành. Cây khô cây lại đâm cành nở hoa”. Đó là tứ thơ nói
về sự hồi sinh của cả một dân tộc được Cách mạng cứu rỗi. Lần đầu tiên nó được
thể hiện bằng cảm hứng sục sôi trong bài Huế tháng Tám:
Chừ đây Huế, Huế
ơi! Xiềng gong xưa đã gẫy
Hãy bay lên! Sông
núi của ta rồi!
Nhà thơ đã sáng tạo
ra một ẩn dụ độc đáo để thể hiện sự hồi sinh: suốt bốn nghìn năm dân tộc chỉ
còn là lồng“ngực lép”, nay được “cơn gió mạnh … thổi phồng lên”:
Chừ đây Huế, Huế
ơi! Xiềng gông xưa đã gẫy
Ngực lépbốn nghìn
năm, trưa nay cơn gió mạnh
Thổi phồng lên. Tim
bỗng hóa mặt trời.
Cái tứ nói về một
dân tộc nô lệ, một thế giới đã “chết”, nay được Cách mạng “hồi sinh”, vụt đứng
lên thành người tự do, cao lớn sẽ còn lặp đi lặp lại hàng mấy mươi lần bằng
những ẩn dụ và các hình ảnh tượng trưng khác nhau trong nhiều bài thơ của Tố
Hữu, ví như: Ta đi tới (“Mẹ ơi lau nước mắt. Làng ta giặc chạy rồi. Tre làng ta
lại mọc. Chuối làng ta xanh chồi”), Lại về(“Hà nội ơi, Hà nội! Cay đắng tám năm
ròng. <…> Bây giờ đây lại là đây. Quốc kì đỉnh tháp, sao bay mặt hồ…”),
Xưa…nay (“Xưa là rừng núi là đêm. Giờ thêm sông biển, lại thêm ban ngày”), Quê
mẹ (“Huế không buồn nữa, Huế ta ơi. Nước mắt trăm năm đã hé cười”), Quang vinh
Tổ Quốc chúng ta (“Khổ trăm năm, cực mấy nghìn năm <…> Ta đứng dậy hai
tay giải phóng”), Ba mươi năm đời ta có Đảng (“Thở nô lệ dân ta mất nước
<…> Ta đã đứng nên người độc lập. Cao bằng người nào thấp thua ai?”). Cái
tứ này còn được Tố Hữu sử dụng để nói về sự hồi sinh của Ba Lan:“…Vác-sa-va ấm
nắng ban trưa. Nét vàng lịch sử vừa tươi lại. Trong cuộc hồi sinh tạnh gió mưa”
(Em ơi…Ba Lan), của Trung Quốc: “Trung Quốc đó. Sức thanh xuân bừng dậy. Có
phải chăng xưa nàng tiên nữ ấy. Mấy nghìn năm đầy đọa tháp Lôi Phong. Vươn mình
lên rực rỡ dưới cờ hồng”(Đường sang nước bạn), của Liên Xô và cả nhân
loại:“Thuở Anh chưa ra đời <….> Đêm ngàn năm man rợ <…> Từ khi Anh
đứng dậy.Trái đất bắt đầu cười...”(Bài ca tháng mười), “Những xác chết nằm
không nhắm mắt <…> Đã sống lại làm người được sống. Đã đứng lên vĩnh viễn
là người” (Bay cao)… Có thể nói, đây là tứ thơ làm nên nội dung cốt lõi của
Cách mạng ca trong sáng tác của Tố Hữu.
“Đời trẻ lại. Tất
cả đều các mạng”. Có một thiên đường mặt đất ở quanh ta (“Miền Bắc thiên đường
của các con tôi”). Đó là tứ thơ nổi lên trong Gió lộng. Nó ca tụng Cách mạng ở
thời đại mới.Ở thiên đường này không còn đói nghèo (“Rũ sạch cô đơn, riêng lẻ,
bần cùng”. “Hết khổ rồi, em nhỉ Hỉ Nhi ơi. Em mặc áo hoa, em đi hài ấm”), rất
tự do, đầy hòa thanh hòa điệu (“Rất tự do nên tượi nhạc tươi vần”. “Người yêu
người sống để yêu nhau” ), người hóa thành thiên thần(“Từ kiếp vượn hỗn mang
nguyên thủy (…) Ta đứng trên trái đất làm người (…) Như thiên thần bay giữa
trăng sao”), tương lai rộng mở, đời từ nay thế là có hướng đi: “Gió lộng đường
khơi rộng đất trời”. Ra trậnngợi ca Cách mạng bằng một tứ thơ khác: “Lịch sử
chọn ta làm điểm tựa”, “31 triệu nhân dân” ào ào “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu
nước”, phơi phới một niềm tin“làm người lính đi đầu”.
Bàn về Cách mạng ca
trong sáng tác của Tố Hữu, không thể không nhắc tới có một loạt bài thơ ca ngợi
vẻ đẹp của các loại tình cảm cách mạng, ví như tình “tiền tuyến hậu phương –
quân dân cá nước” (Cá nước), tình son sắt thủy chung giữa miền xuôi và miền
ngược, người kháng chiến với chiến khu cách mạng(Việt Bắc). Ông cũng có nhiều
bài thơ ca ngợi vẻ đẹp của quần chúng Cách mạng, như chú bé liên lạc (Lượm),
anh bộ đội cụ Hồ thới kháng chiến chống Pháp (Giữa thành phố trụi), người chiến
sĩ giải phóng quân thời chống Mĩ (Tiếng hát sang xuân), chị lao công (Tiếng
chổi tre), hoặc các anh hùng liệt sĩ (Người con gái Việt Nam, Hãy nhớ lấy lời
tôi). Nhưng có lẽ Tố Hữu thành công hơn cả trong việc dựng tượng đài cho các bà
mẹ Cách mạng Việt Nam, ví như Bà má Hậu Giang (Bà má Hậu Giang), bà
bủ (Bà mẹ Việt bắc, Bà bủ), bà bầm (Bầm ơi), mẹ Suốt (Mẹ Suốt), mẹTơm (Mẹ Tơm)
với nhiều hình ảnh giàu sức khơi gợi: “Nước non muôn quí ngàn yêu. Còn in bóng
má sớm chiều Hậu Giang”; “Bầm ra ruộng cấy bầm run. Chân lội dưới bùn, tay cấy
mạ non”; “Ngẩng đầu mái tóc mẹ rung. Gió lay như sóng biển tung trắng bờ…”;
“Buồng mẹ - buồng tim – giấu chúng con (…). Sống trong cát, chết vùi trong cát.
Những trái tim như ngọc sáng ngời” …
Trong “Ca thi” của
Tố Hữu, đối tượng ca tụng là Đảng, Lãnh tụ và Cách mạng. Chủ thể phát ngôn ở
đây chỉ có thể là “con”, “chúng con”, hoặc là “ta”, “chúng ta” hiểu theo nghĩa
là “chiến sĩ đồng bào”: “Con nghe Bác tưởng như lời non nước. Tiếng ngày xưa và
cả tiếng mai sau”. “Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta. Ta bỗng lớn ở bên
người một chút”. “Ca thi” là tiếng nói hướng thượng. Giống như “Thệ” và “Hịch”,
nó là tiếng nói của không gian “tôn ti”. Tuy nhiên, giữa chúng có một điểm khác
biệt cơ bản. “Thệ” và “Hịch”là những tiếng nói thể hiện xu hướng
chính trị hóa văn nghệ. Xu hướng thẩm mĩ hóa chính trị lại là đặc
điểm quan trọng nhất của “Ca thi”. Nó sử dụng rộng rãi ngôn ngữ hình tượng để
tác động vào trực cảm, trực giác. Ta hiểu vì sao “Ca thi” của Tố Hữu dồn mọi nỗ
lực để kiến tạo hai loại hình thượng: hình tượng thị giác và hình tượng thính
giác.
Vẽ tranh là cách
tốt nhất để tạo ra hình tượng thị giác. Nhà thơ mời gọi: “Anh hoạ sĩ làng Hồ,
lại đây anh, mà vẽ”. Ông trầm trồ: “Nước non mình, đâu cũng đẹp như tranh”. Đọc
“Ca thi” của ông ta như được tận mắt nhìn thấy một bức tranh với mấy nét vẽ cơ
bản.
Nét thứ nhất: vẽ
động thái của đối tượng ca ngợi bằng cặp động từ “đi”, “đi tới” và “bay”, “bay
lên”. Trong thơ Tố Hữu, ai cũng như đang “đi tới” (“Yêu biết mấy những con
người đi tới”), đôi tay hóa thành “hai cánh” (“Hai cánh tay như hai cánh bay
lên”), lòng người phấp phới “bay” (“Ta đi đây, lòng ta như bay”), đất nước là
“cỗ xe trăm mã lực khổng lồ” do “Bàn bàn tay thần diệu của Bác Hồ. Cầm chắc
lái, bay trên đường vạn dặm”, tất cả đều như đang “đi”, “đi tới”, “bay”, “bay
lên”, “bay giữa trăng sao”. Về điểm này, tôi đã trình bày trong phần nói về
“ngôn ngữ hội hè”, nên sẽ không bàn luận gì thêm.
Nét thứ hai: vẽ ra
hình sắc của vũ trụ. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử nhận xét tinh tế về ngôn ngữ
giàu hình ảnh và màu sắc trong thơ Tố Hữu. Ông phát hiện: “hình ảnh ngôn từ
trong thơ Tố Hữu thể hiện một thế giới đang“bừng sáng, bốc cháy, nóng bỏng”. Tố
Hữu “thích nói đến mặt trời chân lý, mặt trời lên, đỏ như sao hoả, sáng sao
kim, chói lọi khối sao băng, cả địa cầu thành ngôi sao, muôn vạn vì sao dẫn
đường”. Theo nhà nghiên cứu, Tố Hữu “thích dùng những hình ảnh nóng cháy - ngọn
đuốc thiêng liêng, tim ta làm ngọn lửa…”, vì thế, “cả thế giới trong thơ Tố
Hữu, ngoại trừ bọn phản động, tất cả đều phát sáng”[2].
Nét thứ ba: dùng
các chi tiết ngoại hình “mặt”, “má”, “ngực”, “bàn chân”, “hai cánh tay” để vẽ
ra một cơ thể cường tráng. Nó là cơ thể của “Cộng hòa ta nay tuổi mới mười ba”,
của “Đất huy hoàng 25 tuổi trẻ”, của “các em”, “các anh”, “các chị”, của “những
người trai, những cô gái yêu”. Tất cả đều trẻ trung và“trẻ mãi không
già”. Người già nua, tật nguyền không bao giờ xuất hiện trong văn học hiện thực
xã hội chủ nghĩa nói chung, thơ Tố Hữu nói riêng. Mẹ Suốt, hay “các cụ bạch đầu
quân” trong thơ Tố Hữu đều “trẻ lại”, “thành cách mạng” để “Lớp cha trước, lớp
con sau. Đã thành đồng chí chung câu quân hành”. Ta hiểu vì sao, nhà
thơ thường gắn cơ thể cường tráng của của “cộng hòa ta”, của “đất nước huy
hoàng” với “xuân”, “mùa xuân”: xuân đất trời, xuân Tổ quốcvà cả “xuân nhân
loại”. Nổi bật trên cơ thể cường tráng kia là“mặt người rạng rỡ”, “Gương mặt
người, ai cũng sáng long lanh”. Và trên gương mặt “rạng rỡ” ấy bao giờ cũng ửng
lên đôi má “bồ quân” (“Ngơ ngác trông quanh lạ mấy lần. Hỏi thăm cô gái má bồ
quân”), “má hây hây” (“Hỡi em đi học, hây hây má tròn”), “má hồng” (“Ga mới
hồng đôi má. Cầu mới thơm mùi sơn”) “má đỏ dậy” (“… Có gì vui đấy. Hỡi em yêu?
Mà má em đỏ dậy?” ) “má đỏ thắm” (“Em nói, em cười, má em đỏ thắm”), “má hường”
(Những sắc đẹp đã ửng hường đôi má. Cộng hòa ta nay tuổi mới mười ba”). Hấp dẫn
nhất là các chi tiết nói về “lồng ngực” (“Đường nở ngực. Những hàng dương liễu
nhỏ”. “Giương ngực nở, đi đến bờ bến mới”. “Ngực dám đón những phong ba dữ
dội”), “bàn chân”, ( “Nhữngbàn chân từ than bụi, lầy bùn (…) Những
bàn chân của Hóc Môn, ba tơ, cao Lạng (…) Những bàn chân đã vùng dậy đạp đầu…”.
“Chânđạp bùn không sợ các loài sên”…), “bắp chân”, “bước chân”, “đôi
vai” (“Bước trường chinh, bắp chân đã vững. Gánh sơn hà vai cứng đảm đương”.
“Bước chân ta vững như đồng như sắt”…). Chính những chi tiết như thế làm hiển
hiện trước mắt người đọc một cơ thể trẻ trung, cường tráng, ngời ngời sắc xuân,
hừng hực sức sống.
Hình tượng thị giác
trong thơ Tố Hữu không chỉ là tranh vẽ, mà còn là tượng đài uy nghi, hoành
tráng được khắc họa bằng ngôn ngữ khoa trương. Về điểm này, tôi cũng đã nói ở
trên, nên không có gì phải bàn thêm.
Hình tượng thính
giác cũng tác động mạnh mẽ tới trực giác, trực cảm. Cách tốt nhất để “Ca thi”
tạo ra hình tượng thính giác làhô khẩu hiệu. Nhan đề nhiều bài thơ của Tố Hữu
tự nó đã là một khẩu hiệu: Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Vinh quang Tổ quốc chúng
ta!”. Người đọc có thể nghe thấy các khẩu hiệu được nồng nhiệt hô vang trong
nhiều tác phẩm của ông: Huế tháng Tám (“Việt Nam! Việt Nam! Việt Nam muôn
năm”), Hồ Chí Minh (“Hồ Chí Minh. Người trẻ mãi không già!”), Sáng tháng Năm
(“Việt Nam phải tự do. Thế giới phải hòa bình!”), Hoan hô chiến sĩ Điện Biên (“Hoan
hô chiến sĩ Điện Biên!”.), Hai anh em ( “Giữ hòa bình, Tổ quốc chúng ta! …Ngàn
năm Triều – Việt một nhà!”), Chào xuân 67 (“Mác – Lênin, vĩnh viễn mặt trơi!”),
Bài ca xuân 68 (“Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta!”),Theo chân Bác (“HỒ CHÍ MINH!
HỒ CHÍ MINH!”)…
Dĩ nhiên, trong
nghệ thuật, hiện thân của hình tượng thính giác là hình tượng âm nhạc. Cốt lõi
cấu trúc của hình tượng âm nhạc là giọng điệu. Trong nghệ thuật ngôn từ, nền
tảng của giọng điệu là ngữ điệu. Năm 1921, trong một công trình nghiên cứu nổi tiếng,
dựa vào cú pháp giọng điệu, lấy ngữ điệu làm bản vị, B.M. Eikhenbaum đã chia
câu thơ trữ tình Nga thành ba loại phong cách: điệu ca, điệu ngâm và điệu
nói[3]. “Ca thi” trong sáng tác của Tố Hữu chủ yếu thuộc điệu ngâm và điệu ca.
Có thể nhận ra ba đặc điểm cốt yếu về tổ chức ngữ điệu của điệu catrong “Ca
thi” của Tố Hữu.
Thứ nhất: Câu cảm
thán và câu nghi vấn tu từ với từ đánh dấu giọng. Nhiều bài thơ của Tố Hữu sử
dụng dày đặc các câu cảm thán, câu chỉ định và câu nghi vấn tu từ hàm ý thán
phục, ngưỡng mộ, tự hào với những từ đánh dấu giọng, như “ôi” ( “Ôi ta biết cảm
ơn ai đã sáng tạo cái tên người dũng ĩ!”.“Ôi sức trẻ! Xưa trai phù Đổng”.“Ôi
hạnh phúc! Ta yêu vô tận” ), “đó”(“Lênin đó. Muôn triệu lần nảy nở (…) Lênin
đó. Ngời ngời chân lí”. “Đời vuiđó hôm nay mở cửa. Đời vuiđó, tiếng ca đoàn
kết”…), “biết bao” ( “Đẹp biết bao, cuộc chiến đấu anh hùng”), “sao”(“Đáng yêu
sao, những mảnh đất bạc màu. (…) Nghe Đảng khuyên, bỗng thấy mình giàu”), “vì
sao” ( “Vì sao nhỉ, anh em ơi có lúc. Ta vẩn vơ mơ tưởng trên đường”), “có
thấy” ( “Này các chị các anh, đi trên đường có thấy. Nước non mình đâu cũng đẹp
như tranh?” ), “phải không” (“Phải không vậy, Trong tay ta, tất cả?” ), “phải
chăng” ( “Phải chăng có những khúc đường nóng lạnh”). Quan trọng hơn, trong điệu
ca, các từ đánh dấu giọngthường được đặt vào nhữngvị trí xác định, ví như đầu
câu, hoặt đầu mỗi nhịp thơ. Chẳng hạn:
Yêu biết mấy,những
dòng sông bát ngát
Giữa đôi bờ dào dạt
lúa ngô non
Yêu biết mấy,những
con đường ca hát
Qua công trường mới
dựng mái nhà son!
Yêu biết mấy,những
bước đi dáng đứng(…)
Yêu biết mấy,những
con người đi tới …
Hoặc:
Vì saongày một
thanh tân?
Vì saongười lại mến
thân hơn nhiều?
Vì saocuộc sống ta
yêu.
Mỗi giây, mỗi phút,
sớm chiều thiết tha?”
Vì saomỗi hạt mưa
sa?...
Thứ hai:Hơi thơ
liền mạch. Tố Hữu triệt để sử dụng sức mạnh của tất cả các loại gieo vần, vần
lưng, vần chân, vần thông, vần gián cách, vần ngay trong nội bộ dòng thơ, gây
ấn tượng không có sự ngưng giọng hay ngắt giọng, tạo ra hơi thơ liền mạch trong
suốt toàn bài. Để bạn đọc hình dung, xin dẫn đoạn mở đầu bài Hoan hô chiến sĩ
Điện Biên:
Tin về nửa đêm
Hỏa tốc hỏa tốc
Ngựa bay lên dốc
Đuốc chạy sáng rừng
Chuông reo tin mừng
Loa kêu từng cửa
Làng bản đỏ đèn, đỏ
lửa
Một đoạn khác trong
bài Ta đi tới:
Đẹp vô cùng, Tổ quốc
ta ơi!
Rừng cọ đồi chè,
đồng xanh ngào ngạt
Nắng chói sông Lô,
hò ô tiếng hát
Chuyến phà dào dạt
bến nước Bình Ca...
Đã có rất nhiều
công trình nghiên cứu phân tích kĩ tổ chức vần điệu và hơi thơ liền mạch trong
sáng tác của Hố Hữu, nên tôi thấy không cần nói gì thêm về đặc điểm này.
Thứ ba:Điệu giọng
réo rắt. Như đã nói, Tố Hữu bắt đầu viết “Ca thi” từ các bài Hồ Chí Minh, Huế
tháng Tám, Vui bất tuyệt trong tập Từ ấy. Đem so sánh cú pháp giọng điệu trong
Từ ấy với Việt Bắc và các tập thơ về sau của ông, ta thấy có sự khác biệt hết
sức cơ bản. Từ ấy có 34 bài thơ viết theo thể 8 tiếng, 18 bài thất ngôn, 9 bài
ngũ ngôn, 11 bài lục bát và song thất lục bát. Như vậy ở đây, câu thơ 8 tiếng
là sự ưu tiên lựa chọn hành đầu của Tố Hữu. Không cần phải thống kê chi tiết
như thế, ai cũng có thể đoán được, từ Việt Bắc, nhất là ở những tác phẩm quan
trọng nhất của Tố Hữu, ưu tiên lựa chọn hàng đầu của ông chắc chắn sẽ là câu
thơ lục bát và song thất lục bát. Ta biết, câu thơ 8 tiếng là hình thức câu thơ
cơ bản của Thơ mới lãng mạn. Nó vốn là câu hát nói, viết theo lốicú pháp liên
tục, làm thành câu thơ điệu nói hiện đại. Thơ thất ngôn và song thất lục bát là
sản phẩm của thơ ca trung đại. Lục bát là thể thơ dân gian. Câu thơ thất ngôn
được tổ chức theo nguyên tắc cú pháp song hành, tạo ra vẻ đẹp trang nghiêm.
Trong sáng tác của Tố Hữu, ngay cả lục bát cũng cũng được viết bằng cú pháp song
hành như vậy. Chẳng hạn, hầu hết các câu 8 tiếng trong bài Việt Bắc đều được
chia thành hai vế đăng đối với nhau:
Mình đi, có nhớ
những ngày
Mưa nguồn suối lũ//
những mây cùng mù
Mình về, có nhớ
chiến khu
Miếng cơm chấm
muối// mối thù nặng vai
Mình về, rừng núi
nhớ ai
Trám bùi để rụng//
măng mai để già
Mình đi, có nhớ
những nhà
Hắt hiu lau xám
//đậm đà lòng son
Mình về còn nhớ núi
non
Nhớ khi kháng
Nhật// thuở còn Việt Minh
Nhưng về cơ bản,
thơ lục bát được tổ chức theo qui tắc cú pháptrùng điệp vàhồi hoàn. Qui tắc này
thể hiện ở cách gieo vần: vần lưng (chữ cuối của câu lục vần với chữ thứ 6,
hoặc chữ thứ tư của câu bát) và vần chân (chữ cuối của câu bát vần với chữ cuối
của câu lục ở cặp thơ tiếp theo). Cú pháp hồi hoàn, trùng điệp là
nền tảng củađiệu ru. Cú pháp đăng đối, song hành là cơ sở của điệu ngâm. Xét từ
phong cách giọng điệu, hành trình thơ của Tố Hữu bắt đầu từ điệu nói (Từ ấy),
rồi chuyển qua điệu ngâm và điệu ru (Các tập Việp Bắc, Gió lộng, Ra trận. Máu
và hoa). Điệu ngâm, điệu ru cùng với tổ chức vần điệu linh hoạt, đa dạng đã
mang lại cho câu thơ của ông một giọng điệu cực kìréo rắt.
Có thể nói, Sáng
tháng năm, Việt bắc, Ba mươi năm đời ta có Đảng, Bài ca mùa xuân năm 1961, Mẹ
Suốt, Kính gửi cụ Nguyễn du, Theo chân Bác, Nước non ngàn dặm là những bản Lãnh
tụ ca, Đảng ca và Cách mạng cathuộc loại réo rắt nhất trong lịch sử thi ca
đương đại.
2.2.
Đại cáo trong thơ Tố Hữu
Tôi dùng khái niệm
này trước hết để chỉ những tác phẩm ví như Huế tháng tám, Hoan hô chiến sĩ Điện
Biên, Ta đi tới, Ba mươi năm đời ta có Đảng, hay Nước non ngàn dặm. Đó là những
tác phẩm được Tố Hữu viết ra để đánh dấu một sự kiện, kết thúc một giai đoạn
lịch sử, công bố một thắng lợi. Văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa nói chung,
thơ Tố Hữu nói riêng, là văn học của thắng lợi. Cho nên, quá già nửa sáng tác
của Tố Hữu mang dáng dấp, hơi hướm của “Đại cáo”. Xin đọc đoạn mở đầu bài Chào
xuân 67:
Đất nước ta ơi
Xin bắn hai mươi
phát đại bác vang trời
Chào xuân 67!
Xuân của chúng ta
Nam Bắc hai miền
chiến công lừng lẫy!
Báo cho anh em bè
bạn gần xa
Tin vui của chiến
trường chống
Mỹ!
Đó là phần mở đầu
của một văn bản mang phong cách “Đại cáo”. Nó chẳng khác gì cái mở đầu của bài
Ba mươi năm đời ta có Đảng :
Anh chị em ơi!
Ba mươi năm đời ta
có Đảng
Hôm nay ôn lại quãng
đường dài...
Ngọt bùi nhớ lúc
đắng cay
Ra sông nhớ suối,
có ngày nhớ đêm
Mùa xuân đó, con
chim én mới
Rộn đồng chiêm,
chấp chới trời xanh
Đời ta gương vỡ lại
lành
Cây khô cây lại đâm
cành nở
hoa.
Cho nên, “Đại cáo”
cũng là một khuôn mẫu từ chương có vị trí quan trọng trong sáng tác
của Tố Hữu. Chủ thể phát ngôn của nó là “Ta”, “Chúng ta”. Nó nhân danh đất
nước, Tổ quốc để nói với “Chúng con”, với “Chiến sĩ đồng bào”. Cũng như “Hịch”,
tiếng nói của nó bao giờ cũng cất lên từ trên cao, vang xa giữa một không gian
công cộng. Nền tảng cấu trúc của nó là một câu chuyện lịch sử. Trong Hoan hô
chiến sĩ Điện Biên có câu chuyện “Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa
dầm, cơm vắt”. Trong Ta đi tới có câu chuyện “Kháng chiến ba ngàn ngày không
nghỉ. Bắp chân, đầu gối vẫn săn gân”. Ở Vinh quang Tổ quốc chúng ta, nhà thơ
“Trông lại quãng đường qua máu đỏ” để kể chuyện “Trải mười năm chiến đấu gian
lao. Trông mình nay đã lớn cao…”. Trong hàng loạt tác phẩm khác, như
Đường sang nước bạn, Em ơi…Ba Lan, Theo chân Bác, Nước non ngàn dặm, Đường của
ta đi… cũng có những câu chuyện trường thiên lịch sử như vậy. Rất dễ nhận ra,
câu chuyện lịch sử trong thơ Tố Hữu bao giờ cũng có hai nội dung chính: lập cáo
trạng tội ác kẻ thù và liệt kê chiến công nối tiếp chiến công, mở ra một cục
diện mới. Đây là cặp chủ đề tạo thành khuôn mẫu nội dung của thể “Cáo”. Cũng
chính cặp chủ đề ấy đã biến “Đại cáo” trong sáng tác của Tố Hữu thành một mô
thức tu từ tổng hợp. Chẳng hạn đây là đoạn “Ca thi” với tất cả những đặc trưng
cơ bản của nó trong Ba mươi năm đời ta có Đảng:
Máu áo mới nâu non
nắng chói
Mái trường tươi roi
rói ngói son
Đã nghe nước chảy
lên non
Đã nghe đất chuyển
thành con sông dài
Đã nghe gió ngày
mai thổi lại
Đã nghe hồn thời
đại bay cao...
Núi rừng có điện
thay sao
Nông thôn có máy
làm trâu cho người
Đời hết kẻ sống
lười ăn bám
Đời của ai dũng cảm
hy sinh
Những người lao
động quang vinh
Chúng ta là chủ của
mình từ đây...
Nghìn năm giấc mộng
đêm ngày
Ba mươi năm Đảng,
hôm nay có mình
Nhưngtrong Ba mươi
năm đời ta có Đảng còn có cả “Thệ”:
Dù khi tắt
lửa tối trời
Vững lòng quyết
sống không rời Đảng ta”
lẫn “Hịch”:
Hỡi quốc dân, hỡi
đồng bào!
Có gươm, có súng,
có dao hãy dùng
Quyết kháng chiến
đến cùng cứu nước!
Toàn dân trông phía
trước, tiến lên!
Nhìn chung, từViệt
Bắc, nhất là ở các tậpGió lộng, Ra trận, Máu và hoa, thơ Tố Hữu là hình thức
tổng hợp của các mô thức tu từ. Trong sáng tác của ông vừa có tiếng nói hướng
thượng cung kính của “chúng con”, của “chiến sĩ đồng bào”cất lên từ phía dưới,
vừa có tiếng nói trang trọng, “quyền uy” của “ta”, “Chúng ta”, của Đảng, Lãnh
tụ, của Tổ quốc vang lên từ ở bên trên. Bốn mô thức tu từ Thệ - Hịch - Ca thi -
Đại cáo tương ứng với tương quan cấp độ của các chủ thể trong sự kiện giao tiếp
và hệ thống phân vai trên bức tranh thế giới như những thẩm quyền diễn ngôn
trong sáng tác của Tố Hữu. Chúng thực sự biến thi pháp sáng tạo thành thi pháp
của cái điển mẫu, mang lại vị thế quyền lực cho diễn ngôn văn học hiện thực xã
hội chủ nghĩa.
No comments:
Post a Comment