CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ
GIAO TIẾP
I. KHÁI NIỆM GIAO TIẾP
1. Giao tiếp là gì?
Khái niệm: “Giao tiếp là sự tiếp xúc giữa hai hay nhiều
người thông qua phương tiện ngôn ngữ nhằm trao đổi thông tin, tình cảm, hiểu
biết, tác động qua lại và điều chỉnh lẫn nhau” (Đặng Đình Bội)
Hiểu cách khác giao tiếp
là hoạt động xác lập, vận hành các mối quan hệ giữa con người với con người
nhằm thỏa mãn những nhu cầu nhất định.
Ví dụ: Bạn bè trò chuyện
với nhau, cha mẹ gọi điện thoại cho con, trưởng phòng khiển trách nhân viên…
2. Vai trò của giao tiếp
Giao tiếp có vai trò đặc
biệt quan trọng trong đời sống xã hội, và cả mỗi con người.
2.1 Vai trò của giao tiếp trong đời sống xã hội
Đối với xã hội, giao tiếp
là điều kiện của sự tồn tại và phát triển. Bởi xã hội là tập hợp người có mối
quan hệ qua lại với nhau, mà nếu không có giao tiếp thì sẽ không hình thành nên
các mối quan hệ khi đó xã hội chỉ là những cá nhân đơn lẻ rời rạc khó tồn tại
và phát triển.
Ví dụ: Trong sản xuất
kinh doanh, người sản xuất phải nắm bắt nhu cầu thị trường, thị hiếu của người
tiêu dùng mà muốn như thế thì phải giao tiếp, tiếp cận thực tế…điều này mới
thúc đẩy việc sản xuất kinh doanh phát triển.
2.2
Vai trò của giao tiếp đối với cá nhân
- Giao tiếp là điều kiện để tâm lí, nhân cách cá nhân phát triển bình
thường: Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, nhờ có giao tiếp mà mỗi
con người có thể tham gia vào các mối quan hệ xã hội, hòa nhập vào cộng đồng để
từ đó có được những kinh nghiệm, bài học cho mình.
Ví dụ:
Những người “rừng” do sống trong rừng thời gian quá lâu, cách biệt với thế giới
loài người bên ngoài nên khi trở lại với cuộc sống bình thường họ sẽ khó hòa
nhập, tâm lí và hành vi sẽ không bình thường.
- Trong giao tiếp, nhiều phẩm chất của con người, đặc biệt là các phẩm
chất đạo đức được hình thành và phát triển: cách ứng xử có chuẩn mực về đạo
đức, biết như thế nào là đúng với quy định của pháp luật, phân biệt cái tốt,
cái xấu...để từ đó ta có suy nghĩ, thái độ, hành động đúng hơn, phù hợp hơn. Đa
phần những phẩm chất của con người đều được hình thành, phát triển từ trong quá
trình giao tiếp.
Ví dụ: Ông
bà, cha mẹ dạy cho con cháu biết lễ phép, kính trên nhường dưới...
- Giao tiếp thỏa mãn nhiều nhu cầu của con người: nhu cầu hòa nhập vào
xã hội chung, nhu cầu tiếp nhận, truyền đạt thông tin, nhu cầu giải trí...chỉ
được thỏa mãn trong quá trình giao tiếp.
Ví dụ: Cần phải nhắn tin, gọi điện thoại,
xem ti vi, gặp gỡ ai đó...đó chính là nhu cầu ta cần thỏa mãn mà chỉ thông qua
quá trình giao tiếp ta thực hiện được.
II. CHỨC NĂNG CỦA GIAO TIẾP
1. Nhóm chức năng xã hội
1.1
Chức năng thông tin
Chức năng thông tin được thể hiện ở khía cạnh truyền thông (trao đổi
thông tin) của giao tiếp, qua giao tiếp con người trao đổi cho nhau những thông
tin nhất định.
Ví dụ: Người thư kí báo
cáo lại kết quả làm việc của buổi làm việc với một đối tác theo ủy quyền của
giám đốc, hoặc giám đốc đưa ra những yêu cầu, chỉ thị đối với người thư kí.
1.2
Chức năng tổ chức, phối hợp hành động
- Trong một tổ chức, một công việc thường do nhiều bộ phận, nhiều người
cùng thực hiện. Để có thể hoàn thành công việc một cách tốt đẹp, những bộ phận,
những con người này phải thống nhất với nhau, tức là phối hợp với nhau một cách
nhịp nhàng.
- Muốn vậy họ phải tiếp xúc với nhau để trao đổi, bàn bạc, phân công
nhiệm vụ cho từng bộ phận, từng người, phổ biến quy trình, cách thức thực hiện
công việc và trong quá trình thực hiện cũng phải có tín hiệu để mọi người hành
động một cách thống nhất.
Ví dụ: Khi chuẩn bị cho
chiến dịch Điện Biên Phủ, các chiến sĩ kéo pháo đã phát khẩu lệnh “ hò dô” để
phối hợp sức kéo quả pháo.
1.3
Chức năng điều khiển
- Là một chức năng rất quan trọng
của giao tiếp. Chức năng này được thể hiện ở khía cạnh ảnh hưởng tác động qua
lại của giao tiếp.
- Trong giao tiếp chúng ta ảnh hưởng, tác động đến người khác và ngược
lại, người khác cũng tác động, ảnh hưởng đến chúng ta bằng nhiều hình thức khác
nhau: thuyết phục, ám thị, bắt chước…
Ví dụ: Một người có khả năng lãnh đạo chính
là người có khả năng ảnh hưởng đến người khác, lời nói có trọng lượng.
1.4
Chức năng phê bình và tự phê bình
- Thông qua giao tiếp, các nhân vật giao tiếp có thể giúp đỡ nhau, hỗ trợ nhau sửa chữa những thiếu
sót, những hạn chế riêng.
- Vì vậy, việc giao tiếp với mọi
người trong xã hội sẽ giúp ta thấy được những ưu khuyết điểm và những
thiếu sót của mình và tự sửa chữa, hoàn thiện bản thân.
2.
Nhóm
chức năng tâm lí
2.1
Chức năng động viên, khích lệ
Chức năng động viên, khích lệ của giao tiếp liên quan đến lĩnh vực cảm
xúc trong đời sống tâm lí con người. Trong giao tiếp, con người còn khơi dậy ở
nhau những cảm xúc, tình cảm nhất định, chúng kích thích hành động của họ. Một
lời khen chân tình được đưa ra kịp thời, một sự quan tâm được thể hiện đúng lúc
có thể làm cho người khác tự tin, cảm thấy phải làm việc tốt hơn.
Ví dụ: Khi thấy bạn bè, người thân... đang có chuyện
buồn, khó khăn thì chúng ta đến bên an ủi, động viên. Điều đó sẽ họ phần nào cảm thấy nhẹ
lòng hơn và có nghị lực để vượt qua khó khăn.
2.2 Chức năng thiết lập, phát triển, củng cố các
mối quan hệ
Giao tiếp không chỉ là hình thức biểu hiện mối quan hệ giữa con người
với con người, mà còn là cách thức để con người thiết lập các mối quan hệ mới,
phát triển và củng cố các mối quan hệ đã có. Tiếp xúc, gặp gỡ nhau – đó là khởi
đầu của các mối quan hệ, nhưng các mối quan hệ này có tiếp tục phát triển hay
không, có trở nên bền chặt hay không, điều này phụ thuộc nhiều vào quá trình
giao tiếp sau đó. Nếu chỉ tiếp xúc, gặp gỡ một vài lần rồi sau đó sự tiếp xúc
bị ngắt quãng trong một thời gian dài, thì mối quan hệ cũng khó duy trì.
Ví dụ:
Để tình bạn càng được bền chặt và lâu dài thì mỗi chúng ta nên gặp gỡ, tiếp xúc
thường xuyên bằng các buổi họp mặt, chuyến đi chơi,... Điều đó sẽ giúp tình bạn
của mỗi người sẽ trở nên thắt chặt hơn và hiểu nhau hơn.
2.3
Chức năng cân bằng cảm xúc
Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta có những cảm xúc cần được bộc lộ.
Những niềm vui hay nỗi buồn, sung sướng hay đau khổ, lạc quan hay bi quan,
chúng ta muốn được người khác cùng chia sẻ. Chỉ có trong giao tiếp, chúng ta
mới tìm được sự đồng cảm, cảm thông và giải tỏa được xúc cảm của mình.
Ví dụ: Khi chúng ta gặp phải chuyện không vui thì
chúng ta nên tìm đến bạn bè hay người thân mà chúng ta tin tưởng để tâm sự,
cùng chia sẻ. Điều đó
giúp chúng ta có thể giải tỏa được nỗi buồn và dễ nhận được sự cảm thông của
mọi người.
2.4 Chức năng hình thành phát triển tâm lí, nhân
cách
Như vậy, giao tiếp có nhiều chức năng quan trọng. Trong cuộc sống của
mỗi chúng ta, khi các quan hệ giao tiếp cơ bản không thực hiện được đầy đủ các
chức năng này thì điều đó không những sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống và
hoạt động, mà còn để lại những dấu ấn tiêu cực trong sự phát triển tâm lí, nhân
cách của mỗi chúng ta.
III. PHÂN LOẠI GIAO TIẾP
1. Phân loại giao tiếp theo tính chất
của tiếp xúc
Giao
tiếp của tiếp xúc được phân thành hai loại:giao tiếp trực tiếp và giao tiếp
gián tiếp.
1.1
Giao tiếp trực tiếp
-
Giao tiếp trực tiếp là loại giao tiếp trong đó các chủ thể trực tiếp gặp gỡ,
trao đổi với nhau. Đây là loại hình giao tiếp phổ biến nhất trong đời sống con
người.
Ví
dụ: Trong cuộc họp
mọi người đưa ra ý kiến để thảo luận, hay bạn bè nói chuyện trong lớp, sinh
viên đang nghe cô giáo giảng bài…
-Ưu
điểm: Bên cạnh việc sử dụng ngôn ngữ còn
có thể sử dụng các phương tiện phi ngôn ngữ như ánh mắt, nét mặt, ăn mặc, trang điểm..., do đó số lượng thông tin trao đổi
trong giao tiếp thường phong phú, đa dạng và hiệu quả hơn.
Ví
dụ: Ta có thể nói chuyện với người cần qua các hành động,
cử chỉ của ngôn ngữ không lời, hay khi nhìn vào ánh mắt của người khác trong
khi giao tiếp ta có thể đoán được mức độ thân thiện của họ...
1.2
Giao tiếp gián tiếp
-Giao
tiếp gián tiếp là loại giao tiếp được tiến hành song phương, có thể được thực
hiện qua điện thoại hoặc chỉ gửi thông tin dạng văn bản như thư tay, công văn, báo
cáo, đơn, thư điện tử.
Ví
dụ: Gửi tin nhắn qua điện thoại,email,facbook,...Viết
thư cho người yêu,...
-Hạn
chế: Đạt hiệu quả không cao, thiếu sự hỗ trợ của yếu tố phi ngôn ngữ và khó
nhận được sự phản hồi chính xác.
Ví
dụ: Nhắn tin qua điện thoại ngày nay là nhắn tin viết
tắt khó hiểu làm người đọc dễ hiểu lầm suy nghĩ sang vấn đề khác mất thời gian
và đôi khi không biết người đó đang vui
hay buồn để có thể giao tiếp cho phù hợp. Vì thế việc giao tiếp gián tiếp không
mang lại hiệu quả cao…
2. Phân loại giao tiếp theo vị thế
- Vị
thế biểu hiện mối tương quan giữa những
người giao tiếp với nhau, nói lên ai mạnh hơn ai, ai cần ai, ai phụ thuộc vào ai
trong giao tiếp.
-Theo
vị thế giao tiếp được phân ra thành:
+Giao
tiếp ở thế mạnh: Giữa ông bà, cha mẹ với con cháu …
+Giao
tiếp ở thế cân bằng: bạn bè với nhau…
+Giao
tiếp ở thế yếu: khi giao tiếp với người có trình độ giỏi hơn, hay nhân viên với
cấp trên...
- Vị
thế của một người so với người khác chi phối hành vi, ứng xử của họ trong giao
tiếp.
3. Phân loại giao tiếp theo số lượng
người tham gia giao tiếp và tính chất của mối quan hệ giữa họ.
Theo
số lượng người tham gia giao tiếp và
tính chất của mối quan hệ giữa họ, chúng ta có các loại giao tiếp sau đây:
-Giao tiếp giữa hai cá nhân: Trong
hoạt động giao tiếp cuộc gặp gỡ, trao đổi giữa hai cá nhân diễn ra rất phổ
biến: Hai bạn sinh viên trò chuyện trong giờ học hay quá trình trao đỗi mua bán
giữa môt khách hàng và nhân viên…
-Giao tiếp giữa cá nhân với nhóm
người: Cô giáo giảng bài trên lớp, giám đốc phân công việc cho các nhân viên…
-Giao tiếp giữa các cá nhân trong nhóm:
Phòng chăm sóc khách hàng họp để đưa ra kế hoạch cho năm mới…
-Giao tiếp giữa các nhóm: cuộc trao
đổi về bài thuyết trình giữa các nhóm trong lớp…
Bài viết rất ý nghĩa, cám ơn bạn đã chia sẻ
ReplyDeleteclick xem thêm trung tâm gia sư thủ đức quận 9